Những loài lan mới cho cao nguyên Langbiang

Khu dự trữ sinh quyển Langbiang mà vùng lõi là Vườn quốc gia Bidoup Núi Bà được đánh giá là trung tâm đa dạng sinh học của Việt Nam. Khu hệ thực vật nơi đây rất đa dạng và phong phú, hiện đã ghi nhận hơn 2.000 loài thực vật có mạch phân bố tại khu vực này. Trong đó có các loài thuộc họ Lan (Orchidaceae) tại khu vực này đã ghi nhận được hơn 300 loài. Trong đó có nhiều loài đặc hữu, có vùng phân bố hẹp. Theo đánh giá của các nhà khoa học thì những loài này rất dễ bị tổn thương, dễ bị tuyệt chủng do mất sinh cảnh và biến đổi khí hậu. Trong những tháng đầu năm 2020, các nhà khoa học Đài Loan (Trung Quốc) và Việt Nam đã công bố thêm 02 loài mới, 03 ghi nhận mới và tái phát hiện một loài lan đáng chú ý cho cao nguyên này.

Hai loài mới được phát hiện và công bố là Lan Thanh thiên quỳ pubilabia (Nervilia pubilabia T.C. Hsu, C.W. Chen & Luu) và Lan Khúc thần sagittate (Panisea sagittata T.C. Hsu, H.C. Hung & Luu):

– Lan Thanh thiên quỳ pubilabia là loài đặc hữu của Việt Nam, thân thảo mọc trên đất, chiều cao đạt đến 12 cm bao gồm hoa. Củ có màu trắng dài từ 8- 15 mm và rộng từ 3 – 7 mm mang những rễ ngắn, mập mạp nằm rải rác ở các nút. Cuống ngầm nổi lên từ đỉnh củ, màu nâu nhạt, dài 3 – 5 cm, đường kính 1,8 mm mảnh khảnh. Phiến lá thường cách mặt đất một khoảng ngắn hình đa giác, màu xanh lá đồng đều chứa 07 gân chính. Lan Thanh thiên quỳ pubilabia phân bố ở kiểu rừng lá rộng thường xanh, ưu ẩm và chịu bóng, phân bố ở độ cao từ 800 – 1000 m so với mực nước biển. Hoa nở vào tháng 5 và lá xuất hiện từ tháng 6 đến tháng 12. Lan Thanh thiên quỳ pubilabia hiện chỉ được ghi nhận tại khu vực cao nguyên Langbiang với ước tính 100 cá thể trưởng thành cần phải có thêm nhiều đợt điều tra để làm rõ phạm vi phân bố và đánh giá chính xác hơn quy mô quần thể.

– Lan Khúc thần sagittate (Panisea sagittata T.C. Hsu, H.C. Hung & Luu) cũng là loài đặc hữu của Việt Nam, là loài thân thảo, phụ sinh cao từ 5 – 10 cm. Giả hành hình trứng, xếp gần nhau chứa 02 lá hình elip hẹp ở đỉnh. Hoa màu trắng tinh khiết, không mùi, có môi sệ xuống và đây chính là đặc điểm để phân biệt và đặt tên cho loài này. Lan Khúc thần sagittate phân bố trong các khu rừng ẩm lá rộng thường xanh ở độ cao 1700 -1900 m so với mực nước biển. Hoa nở từ tháng 9 đến tháng 11 hằng năm.

 

Hình 1: Lan Thanh thiên quỳ pubilabia (Nervilia pubilabia T.C. Hsu, C.W. Chen & Luu), Hình ảnh và biên soạn bởi: Tian-Chuan HSU

 

Hình 2: Lan Khúc thần sagittate (Panisea sagittata T.C. Hsu, H.C. Hung & Luu)

Hình ảnh và biên soạn bởi: Tian-Chuan HSU

 

          Ba loài lan ghi nhận mới cho hệ thực vật Việt Nam tại cao nguyên Langbiang bao gồm: Lan Thủ thư tortilacinia (Cheirostylis tortilacinia C.S. Leou); Lan Gấm đất reticulata (Goodyera reticulata Blume) và Lan Corybas geminigibbus J.J.Sm.

          – Thủ thư tortilacinia (Cheirostylis tortilacinia C.S. Leou) trước đây đã được ghi nhận tại đảo Hải Nam, Trung Quốc bởi Huang và cộng sự vào năm 2014 và Đài Loan. Loài này được ghi nhân mới cho hệ thực vật Việt Nam tại kiểu rừng lá rộng nguyên sinh trên đá Silicat ở độ cao khoảng 1.200 m, ra hoa vào tháng 1. Nghiên cứu này chỉ ghi nhân được 10 cá thể trưởng thành vì vậy cần mở rộng điều tra để dánh giá đúng hơn tình trạng bảo tồn cho loài này trong tương lai.

          – Gấm đất reticulata (Goodyera reticulata Blume) được phát hiện lần đầu tại vùng núi Gede thuộc Java và Quần đảo Borneo, Indonesia. Ở Việt Nam, loài này được tìm thấy dưới rừng lá rộng nguyên sinh dọc theo một con suối ở độ cao của khoảng 1750 m, ra hoa vào tháng 10. Nghiên cứu này chỉ ghi nhận một địa điểm phân bố gồm 5 cá thể trưởng thành vì vậy cần có nhiều cuộc khảo sát để đánh giá đúng tình trạng bảo tồn của loài này.

          – Corybas geminigibbus J.J.Sm được phát hiện đầu tiên tại vùng núi Mulu phía tây Kalimantan, Indonesia. Là loài thân thảo rất nhỏ, mọc trên mặt đất và rêu ẩm ướt. Tại Việt Nam, loài này được ghi nhận tại Vườn quốc gia Bidoup Núi Bà trên một tảng đá, mọc xen lẫn với rêu ở độ cao 1.500 m với khoảng 20 cá thể trưởng thành được ghi nhân và một quần thể khác tại độ cao 1.800 m ở vùng Núi Chư Mư tỉnh Đắk Lắk.

 

Hình 3: Corybas geminigibbus J.J.Sm, Chụp bởi Trương Quang Cường

 

Hình 4: Thủ thư tortilacinia: A-F; Gấm đất reticulata: G-J;

Hình ảnh và biên soạn bởi: Tian-Chuan HSU

 

Loài lan Tai dê nana (Liparis nana Rolfe, 1913) có thể coi là đã bị tuyệt chủng vì ghi nhận cuối cùng về loài này là từ năm 1924 (Averyanov, 2013). Trong đợt khảo sát vào tháng 12 năm 2014, một mẫu vật ra hoa đã được thu thập và suy đoán bởi tác giả đầu tiên là loài này, nhưng việc định loại chưa được xác nhận cho đến tháng 6 năm 2018 khi các cá thể ra hoa cuối cùng đã được quan sát.

 

Hình 5: Tai dê nana (Liparis nana Rolfe, 1913)

Hình ảnh và biên soạn bởi: Tian-Chuan HSU

 

          Việc công bố thêm 02 loài mới cho khoa học, ghi nhận thêm 03 loài Lan cho khu hệ Lan Việt Nam và tái phát hiện lại một loài bị coi là tuyệt chủng tại Khu dự trữ sinh quyển Langbiang mà vùng lõi của nó là Vườn quốc gia Bidoup Núi Bà một lần nữa khẳng định những giá trị đa dạng sinh học tại khu vực này. Việc mở rộng hợp tác nghiên cứu và tăng cường các đợt khảo sát thực địa nhằm đánh giả đầy đủ mức độ quần thể, tình trạng bảo tồn cho các loài thuộc họ Lan nói riêng và các loài thực vật nói chung là một việc làm rất cần thiết trong công tác bảo tồn. Thông tin này là nền tảng cho việc xây dựng chiến lược, lập quy hoạch, kế hoạch bảo tồn phù hợp cho từng loài, nhóm loài trên cơ sở nguồn lực hiện có.

Kết quả nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí chuyên nghành: https://revistas.ucr.ac.cr/index.php/lankesteriana/article/view/41330;

https://taiwania.ntu.edu.tw/abstract.php?type=referance&id=1679.

Tin bài: Trương Quang Cường